Văn Học Việt Nam vừa mất đi một thiên tài. Hữu Loan không chỉ là một nhà thơ rất được yêu mến, mà còn là một người yêu nước chân thành và là một văn nghệ sĩ có bản lãnh, biết giữ phẩm giá và danh dự của người cầm bút
Bích Huyền Thứ Sáu, 02 tháng 4 2010
Thi sĩ Hữu Loan, tác giả của bài thơ “Mầu tím hoa sim” đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95
Thi sĩ Hữu Loan, tác giả của bài thơ “Mầu tím hoa sim” đã vĩnh viễn từ giã cõi đời khi chuẩn bị bước sang tuổi 95
Chiều lắng xuống bao kiếp cô liêu
đìu hiu bến vắng
trong lòng muôn dòng nước trôi
Nhà ai thấp thoáng lửa hồng
Người đi có nhớ đường về…
Với tiếng nhạc đệm của Đinh Sinh Long trong nhạc khúc Tiếng Lênh Đênh của Tử Phác và Lương Ngọc Châu, và với lời hát thật mênh mang đó, Bích Huyền thân ái kính chào tái ngộ quý vị và các bạn đang lắng nghe Câu chuyện Thơ Nhạc của Đài VOA. Xin mời quý vị và các bạn nghe nhà biên khảo Đặng Tiến nói về Hữu Loan, với những đóng góp của nhà thơ Hữu Loan cho nền thi ca dân tộc.
Hữu Loan là khuôn mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca đương đại từ hơn 60 năm nay. Ông làm thơ hay, hiện đại, tân kỳ, nhưng tên tuổi thường xuất hiện theo thời sự. Màu tím hoa sim, làm trong thời chống Pháp, là bài thơ nổi tiếng nhất.
Ông tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2.4.1916, tại làng quê, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, và qua đời cũng tại đây, ngày 18.3.2010. Qua non một trăm năm dâu biển, sinh và mất cùng một xóm quê, đã là nét đặc biệt, trong nhiều đặc biệt khác của Hữu Loan.
Ông thường kể lại là mình xuất thân từ một gia đình nông dân, tá điền nghèo. Năm ba lần trong đời - ông đã bỏ bút mực về quê cầy ruộng, đánh cá. Từ 1958 thì đi xe thồ chở củi, chở đá nặng nhọc.
Ông có chìm nổi, có gian lao thật, nhưng là cuộc đời do ông chọn lựa, làm một cây gỗ vuông chành chạnh.
Điều thiệt thòi cho ông là: khi nhắc đến Hữu Loan, ít người quan tâm, bàn luận đến những đóng góp lớn lao của ông vào nghệ thuật thi ca từ thời 1945 đến nay. Ông là một trong những người đi tiên phong trong việc cách tân thơ Việt Nam. Bắt đầu là bài Đèo Cả, làm năm 1946:
Đèo cả! Đèo Cả
Núi cao ngút
Mây trời Ai Lao
Sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá Bia mù sương
Bên quán « Hồng Quân » người ngựa mỏi
Nhìn dốc ngồi tha,
Thương ai lên đường!
Chầy ngày lạc giữa núi
Sau chân lối vàng xanh tuôn
Dưới đây bên suối độc
Cheo leo chòi biên cương
Rau khe, cơm vắt
Áo phai màu sa trường
Ngày thâu vượn hú
Đêm canh gặp hùm lang thang
(Quý vị và các bạn vừa thưởng thức một giọng hát không phải là ca sĩ chuyên nghiệp, giọng hát Tường Vân trong ca khúc Tiếng Hát Lênh Đênh của Tử Phác và Lương Ngọc Châu. Tử Phác cùng Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm là bốn người đã khởi xướng phong trào Nhân Văn Giai Phẩm từ năm 1955 và từ quân đội.)
Cùng một mạch thơ, khoảng đầu thập niên 50, Hữu Loan có bài Tình thủ đô do bè bạn ghi theo trí nhớ, và tác giả đã duyệt lại:
Trên những chuyến xe bò
đi về đường Trèm Vẽ
Việt Bắc âm u
Đường dài Thanh Nghệ
Người Thủ đô tản cư
Đoàn xe bò chở nặng tâm tư
Một góc nhà
một hè phố
Mắt em biếc
một chiều xưa
Bài này phảng phất ít nhiều tình cảm lãng mạn, như trong Màu Tím Hoa Sim, viết về người thật và việc thật xảy ra trong đời Hữu Loan: người vợ trẻ mới cưới, tên Lê Đỗ thị Ninh, chết vì tai nạn – té xuống sông...
Sự việc, tự nó đã thương tâm. Nó còn bi thảm hơn nữa khi người đọc tưởng tượng ra cảnh người vợ chết vì bom đạn, và qua lời thơ kết, lãng mạn, bi thiết:
Những chiều hành quân qua những đồi sim
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa…
Cái chết ở đây là do tai nạn, thời nào, nơi nào, cũng có thể xảy ra; nhưng nó đã xảy ra trong thời chiến tranh; và tác giả đã khéo lồng vào khung cảnh khói lửa:
Ba người anh từ chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng…
Do đó bài thơ có tính chất truyền cảm sâu, và biểu tượng mạnh, trên một đất nước đau thương, tang tóc vì một chiến cuộc kéo quá dài. Bài thơ khi ra đời, đã bị ngăn chặn, vì tính cách bi quan, « phản chiến » của nó, trong giai đoạn chiến đấu quyết liệt. Tác phẩm miêu tả sự thật, mà bị cấm đoán thì càng được truyền tụng, truyền miệng khắp nơi...
Trong nguồn thơ kháng chiến, tháng 12 - 1956, bài thơ mừng xuân « Ôm Tết vào lòng », phấn khởi sau chiến thắng và hòa bình, nhưng vẫn còn tím bầm thương tích của chiến tranh:
Tết và mùa xuân
như mắt người ứa lệ
Những người đầu tang
còn rối tóc rối khăn
Ôm Tết vào lòng
băng bó lại mùa xuân.
Cùng nói lên
nói lớn một lần
Không được giẫm lên mùa xuân
Không được giẫm lên Tết nữa
Không được giẫm chân lên lòng người.
« Không được giẫm lên lòng người » là một khuynh hướng trong tâm đạo Hữu Loan, thiết tha với tự do, thường xuyên phản kháng.
Ông tham dự vào phong trào Nhân văn giai phẩm; trên Giai phẩm mùa Thu, tập 2, 1956 có bài « Cũng những thằng nịnh hót »
Một điều đau xót
Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ Dân chủ Cộng hòa
Những thằng nịnh còn thênh thang đất sống
Chúng nó ngụy trang bằng tổ chức
bằng quan điểm nhân dân
bằng lập trường chính sách
Chúng nó còn thằng nào
là chế độ chúng ta chưa sạch
Phải làm tổng vệ sinh cho kỳ hết mọi thằng.
Những người đã đánh bại xâm lăng
Đỏ bừng mặt vì những tên quốc sỉ
Ngay giữa thời nô lệ
Là người, chúng ta không ai biết cúi đầu.
Trên Giai phẩm mùa Đông, tập 1, tháng 12.1956, Hữu Loan còn có truyện ngắn « Lộn sòng » mô tả những tiêu cực trong đời sống khó khăn của giáo giới Thanh Hóa.
Thời điểm này, ông phải đi tham gia Cải cách ruộng đất, chứng kiến nhiều cảnh ngộ bất nhẫn. Bà vợ sau của ông, gốc gác địa chủ lại là nạn nhân trực tiếp của chính sách. Cha mẹ bà bị chôn sống. Khi đó bà 17 tuổi. Bà là người duy nhất trong gia đình còn sống sót. Nhưng bị đuổi ra khỏi nhà. Hữu Loan đã bỏ Đảng để lấy người con gái đáng thương này làm vợ. Ông bỏ biên chế tại nhà xuất bản Văn Nghệ, bỏ Hà Nội, về quê Thanh Hóa sống lao động lam lũ và lầm than: lần này thì đốn củi, thồ củi, thồ đá bằng xe bò bánh gỗ và bị áp bức mọi bề. Ông vẫn một lòng dũng cảm và kiên quyết sống bất khuất, nuôi nấng đàn con mười đứa.
Năm 1988, Hữu Loan 72 tuổi lại xuất hiện trong thời sự văn nghệ và chính trị, đột xuất xung phong tham gia vào chuyến đi xuyên Việt do một vài anh em trong Hội văn nghệ tỉnh Lâm Đồng tổ chức, để đấu tranh, đòi hỏi tự do, dân chủ. Và có bài thơ Chuyện Di Tề:
Lịch sử là một trò hề diễn lại diễn đi chưa có gì mới mẻ
chỉ có bọn Trùm Hề là nhiều ngón bịp mới hơn
Trong bối cảnh đó, ông tự chọn và khẳng định cách tồn tại:
Tôi là cây gỗ vuông chành chạnh
suốt đời đã làm thất bại mọi âm mưu đẽo tròn
để muốn tùy tiện lăn lóc thế nào thì lăn lóc.
Chân tính đấy
Hỡi Rìu, Bào, Phó Mộc...
(nhà thơ đã viết hoa những chữ Rìu, Bào, Phó Mộc này)
Người xưa có câu: đóng nắp quan tài, mới định luận được phẩm giá một người. Ngày nay sự việc có phần phức tạp hơn. Nhưng với Hữu Loan qua cuộc đời dài, « tuổi già non thế kỷ », sôi nổi, khói lửa, trầm luân, đánh giá từ đâu, kiểu gì đi nữa thì chúng ta đều phải ghi nhận và đề cao hai nét son: tài hoa và tiết tháo. Như một câu văn tế người xưa, thời nảo thời nao, nay đã xa xăm:
Ngọc dầu tan
vẻ trắng nào phai
Trúc dẫu cháy,
tiết ngay vẫn để...
*Xin cảm ơn anh Đặng Tiến đã gửi cho Bích Huyền bài viết này để thực hiện chương trình. Cảm ơn anh chị Đinh Sinh Long, Trần Thanh Long và Tường Vân đã góp tiếng đàn tài tử, giọng hát tài tử cho chương trình thêm màu sắc.
Bích Huyền
_________________
Vietnam Library Networkhttp://www.vietnamlibrary.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét