Thứ Sáu, 30 tháng 7, 2010

20 - LỜI TỰ THUẬT CỦA HỮU LOAN - ĐÔNG GIANG-HOÀNG HOA THÁM (suu tam)

LỜI TỰ THUẬT CỦA HỮU LOAN





Điều ít biết về 'Màu tím hoa sim' của Hữu Loan 


Đến nay, "Màu tím hoa sim" được xem là một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20 và là bài thơ đầu tiên được mua bản quyền bởi một doanh nghiệp với giá 100 triệu đồng. Nhưng quanh sự kiện này, cũng không ít độc giả còn thắc mắc về bản cũ và bản mới chỉnh sửa sau này của bài thơ. Tại Sài Gòn, trước năm 1975, giới văn nghệ sĩ cũng như đông đảo bạn đọc yêu thích thơ nhạc đều rất quen thuộc với bài Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan. Tuy bấy giờ tác giả đang sống ngoài Bắc, nhưng tác phẩm ấy đã chiếm một chỗ đứng trong lòng người yêu thơ miền Nam. Bài thơ được giới thiệu không những qua sách báo, mà còn được phổ nhạc, hát rộng rãi trên đài phát thanh, các buổi trình diễn văn nghệ trên sân khấu đương thời, nhất là vào những năm thập niên 60 của thế kỷ 20. Bản Màu tím hoa sim thời ấy ngắn hơn bản tác giả công bố sau này. Nghĩa là dừng lại, chấm hết ở mấy câu: "Tôi hát trong màu hoa. Áo anh sứt chỉ đường tà. Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu" chứ không có thêm “Tôi ví vọng về đâu. Tôi với vọng về đâu. Áo anh nát chỉ dù lâu...” ở cuối bài như sau này. 
So với bản Màu tím hoa sim "nay" thì bản "xưa" tuy ngắn hơn nhưng ý thơ đi rất trọn nghĩa, trọn tình, không trúc trắc, không khiến người đọc phải dừng lại suy nghĩ. Nhà thơ có quyền sửa thơ của mình, hoặc thêm vào những đoạn mới. Song về phía những độc giả đã cảm nhận, yêu thích, hoặc có những kỷ niệm gắn bó với Màu tím hoa sim theo bản cũ thì khó "làm quen" với những đoạn mới, chữ mới, với hơi thơ có vẻ xa lạ với bài thơ từng biết. Do vậy, một số độc giả đã tỏ ra tâm đắc với bài Màu tím hoa sim trước kia. Nhưng dù Màu tím hoa sim bản "xưa" hay "nay" vẫn chỉ để viết về một người, một mối tình. 
Đó là người vợ trẻ Đỗ Thị Lệ Ninh đã mất sau ngày cưới không lâu vì chết đuối. Các anh của “nàng”, theo tài liệu của Hàn Anh Trúc là 3 người có thực ở chiến trường Đông Bắc. Đó là Đỗ Lê Khôi - tiểu đoàn trưởng hy sinh trên đồi Him Lam, Đỗ Lê Nguyên nay là Trung tướng Phạm Hồng Cư và Đỗ Lê Khang - nguyên Thường vụ Trung ương Đoàn. Hữu Loan kể và Hàn Anh Trúc ghi lại trong một cuốn biên khảo văn học rằng, bố vợ ông trước kia làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên “vợ mình sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má”, bài thơ mới có câu “má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối”. Hàn Anh Trúc viết là Hữu Loan sáng tác bài thơ ngay tại mộ người vợ trẻ, rồi: "ghi vào chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Bạn anh đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến tranh". Điều đó đã được chính nhà thơ Hữu Loan xác nhận. 
(Theo Thanh Niên) 


Nàng có ba người anh đi bộ đội 
Những em nàng 
Có em chưa biết nói 
Khi tóc nàng đang xanh 
Tôi người vệ quốc quân 
xa gia đình 
Yêu nàng như yêu người em gái. 
Ngày hợp hôn 
Nàng không đòi may áo mới 
Tôi mặc đồ quân nhân 
đôi giày đinh bết bùn 
Đất hành quân 
Nàng cười xinh xinh 
bên anh chồng độc đáo 

Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi 
Từ chiến khu xa 
Nhớ về ái ngại 
Lấy chồng thời chiến binh 
Mấy người đi trở lại 
Lỡ khi mình không về 
thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê......
Nhưng không chết 
Người trai khói lửa 
Mà chết 
Người gái nhỏ hậu phương. 
Tôi về không gặp nàng 
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối 
Chiếc bình hoa ngày cưới 
thành bình hương 
tàn lạnh vây quanh 
Tóc nàng xanh xanh 
ngắn chưa đầy búi 
Em ơi giây phúp cuối 
Không được nghe nhau nói 
Không được nhìn nhau một lần 
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím 
áo nàng màu tím hoa sim 
Ngày xưa 
một mình 
đèn khuya 
bóng nhỏ 
Nàng vá cho chồng tấm áo 
ngày xưa...


Lời tự thuật của HỮU LOAN

Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa,chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà . Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học . Đến năm 1938 , lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốân quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn .Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy , trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và ...Tôi - Nguyễn Hữu Loan. 

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên . Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.

Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà .Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ' Em chào thầy ạ'Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một 'bà cụ non'. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ...

Có lần tôi kể chuyện ' bà cụ non' ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành... Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ...Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: ' mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu' Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi ..... 

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi:

-Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt qúa nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những qủa sim đen láy chín mọng.
-Thầy ăn đi.

Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: “Ngọt qúa.”
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, qủa sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những qủa sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay đầu nhìn lại...em vẫn đứng yên đó ...Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa...

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ ....

Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp...

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ,ï vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm'soạn kịch bản'. 
Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là:'yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả'. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay...lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói , hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu qúy của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại...Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn( thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi .
Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn... Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:

Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh ... 
...Tôi về không gặp nàng....

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa.. Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.

Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang 'ở nhà trông vườn' ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chỗ 'quê đẻ của tôi đấy' thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : 

Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi' hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi'. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi qúa! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ qúa rồi!
Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng...Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ...Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? 

Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu qúy, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi....Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.

Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng. sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ qúa, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954- 1955.

Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản qúa, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn ,nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông . Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó , cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng . 

Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ ,nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.

Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Qúa xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.

Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.

Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no....Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai , 4 gái- và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.
Năm 1988, tôi ' tái xuất giang hồ' sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.




Anh Lê Văn Chính giám đốc Cty Vitek VTB lúc mua bản quyền( hiện anh là chủ tịch HĐQT Công Ty SƠNCA- ACNOS, năm vừa qua Công ty anh nhận cháu Thư - cháu Nội của nhà thơ Hữu Loan- vào làm việc tại Saigon )hình anh đứng chụp bên "chiếc bình hoa ngày cưới". Chúng tôi đã có lần giới thiệu trên Blog ĐG-HHT quá trình đi mua bản quyền bài " Màu Tím Hoa Sim" của anh Lê Văn Chính



Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Vitek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia 'lộc' cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan. 

Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán./.

* Hữu Loan. 






Nhà Thơ ký hợp đồng nhượng quyền bằng miếng kiếng 






Một góc căn nhà của Hữu Loan 






Bà Phạm Thị Nhu 76 tuổi -vợ thi sĩ Hữu Loan 



Anh Lê Văn Chính viết trên báo Tuổi Trẻ ngày 20.3

Hữu Loan lúc nào cũng có một nụ cười thảnh thơi như hiền triết. Khó có thể tưởng tượng hình ảnh một nhà thơ với những vần thơ da diết bi hùng lại dũng cảm lựa chọn nghề đập đá trên núi đẩy xe về chợ bán để nuôi cả mười người con ăn học thành tài.

Được dịp tiếp chuyện với Hữu Loan và bà Phạm Thị Nhu - người vợ hiền tần tảo cùng ông những năm tháng đói nghèo - mới thấy tấm lòng khí khái của kẻ sĩ. Tính cách của ông bà và những người con đều giống nhau ở chỗ cái chất trí thức thanh tao vẫn còn đó, không hề bị lôi cuốn theo những cám dỗ vật chất. Cuộc sống thanh bần nhưng không cần thiết thở than chi nhiều...

Hữu Loan mất đi, điều để lại cho nhân gian không chỉ là những bài thơ tình thế kỷ, mà lớn hơn là một nhân cách hiếm có.

LÊ VĂN CHÍNH
(giám đốc Công ty điện tử Vitek VTB - đơn vị đã mua bản quyền bài thơ Màu tím hoa sim với giá 100 triệu đồng vào năm 2004)

Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2010

19 - Gặp trưởng lão làng thơ Việt - Hồ Bất Khuất

Hồ Bất Khuất
Gặp trưởng lão làng thơ Việt
 
Cái tên “Hữu Loan” từ lâu đã “làm tổ” trong lòng những người yêu thơ. Chỉ với bài “Màu tím hoa sim”, ông đã làm tím thi đàn Việt Nam. Đời người, đời thơ của Hữu Loan chứa đầy những điều đáng trân trọng. 

  



Từ ám ảnh thuở học trò đến chuyến đi ngẫu hứng

  
Khi là học sinh chuyên văn của tỉnh Nghệ An, tôi chứng kiến cánh học trò chuyền tay nhau chép bài thơ “Màu tím hoa sim”. Hơn thế nữa, trong những lần đi rừng hái củi, mấy người bạn còn khe khẽ hát: “Ôi những đồi hoa sim, những đồi hoa sim tím chiều hoang biền biệt…” Tôi rất xúc động. Cái tên Hữu Loan găm vào tôi từ ngày đó. 
   
Thú thật là ngoài chuyện bài thơ hay ra, người ta còn kể nhiều chuyện khá ly kỳ về Hữu Loan. Điều đấy khiến tôi tò mò. Tôi có mong ước được gặp gỡ và trò chuyện với người “làm tím thi đàn Việt Nam”. Tôi cũng bỏ công ra sưu tầm thơ Hữu Loan, nhưng ngoài “Màu tím hoa sim” ra, tôi cũng chỉ biết thêm được “Đèo cả”. 
    
Thời gian cứ thế trôi, tôi tốt nghiệp đại học rồi đi làm báo. Công việc và chuyện “cơm áo gạo tiền” cuốn đi mải miết. Bạn bè cùng học, cùng uống rượu thành nhà văn, nhà thơ; họ in sách tặng tôi xếp đầy cả tủ. Bản thân tôi cũng bỏ tiền mua những tập không được tặng, nhưng tôi tìm mãi vẫn không thấy tập thơ nào của Hữu Loan. Tôi vẫn khắc khoải, mong ngóng một điều gì đấy. 

   

... Vào những năm tám mươi của thế kỷ trước, trong một lần đi công tác tại Thanh Hoá, khi xe của chúng tôi đi qua một làng quê, người ngồi bên cạnh tôi thì thầm: "Hình như nhà thơ Hữu Loan kìa". Theo tay anh chỉ, tôi thấy một người đàn ông trên 60 tuổi đẩy một chiếc xe thồ đầy đá. Chiếc U-uát chạy nhanh quá, tôi không nhìn rõ mặt người đẩy xe, nhưng thấy dáng ông đi tự tin và vững chãi. Tuy nhiên, hình ảnh ấy có vẻ không phù hợp với một thi sĩ. Chắc có điều gì uẩn khúc ở đây? Tôi mong được một lần gặp Hữu Loan. 
  
Mãi đến bây giờ tôi mới có dịp thực hiện mơ ước từ ngày bé của mình. Vào một ngày đẹp trời, có người rủ tôi đi thăm nhà thơ Hữu Loan. Tôi mừng húm vì nghĩ rằng, người này có mối quan hệ thân thiết với nhà thơ nổi tiếng. Nhưng hoá ra không phải vậy. Anh cũng chỉ là người mến mộ nhà thơ và biết mỗi địa chỉ. Nhưng khi đã muốn thì có thể tìm… 
      
Cách thành phố Thanh Hoá khoảng 26 km, trên quốc lộ 1A (hướng Hà Nội – Vinh), có biển chỉ dẫn "Nga Sơn" đi về phía biển. Theo con đường này đi được chừng 2 km, chúng tôi hỏi hai cô gái đi xe máy cùng chiều. Thật may, hai cô này quê ở Nga Lĩnh và biết nhà của thi sĩ Hữu Loan. Hai cô tình nguyện dẫn đường cho chúng tôi. Trước khi về nhà mình, các cô nói: "Đi theo đường này khoảng vài trăm mét, thấy cái nhà 2 tầng, ông Hữu Loan ở đó.” 
Nhà thơ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 02/4/ 1916 tại xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1936, đã từng giữ chức Phó Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Nga Sơn, Uỷ viên Văn hoá trong Uỷ ban Lâm thời tỉnh Thanh Hoá. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là chiến sĩ một đơn vị ở Liên khu 4, chủ bút báo Chiến sĩ. Sau năm 1954, ông làm ở báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam. Sau đó, ông trở về quê làm ăn sinh sống và nuôi dạy con cái.
Tuy đã tìm được gần đến nơi, nhưng trong tôi cảm xúc lẫn lộn. Tôi chưa tưởng tượng được nhà thơ Hữu Loan hơn 90 tuổi, ở trong một ngôi nhà tầng sang trọng, lên xuống cầu thang như thế nào. Và nữa, ông có thể không có nhà. Nếu ở nhà, ông có thể không tiếp chúng tôi, vì trước khi đến đây chúng tôi chẳng liên hệ, chẳng có thông tin gì cả, ngoại trừ cái địa chỉ: thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn. 
   
Vợ chồng nhà thơ Hữu Loan
Nhưng mọi sự không như tôi tưởng. Cái nhà 2 tầng hoá ra không phải của gia đình Hữu Loan, mà chỉ là một cái nhà nổi bật ở gần đó. Nhà thơ Hữu Loan ở trong một ngôi nhà cấp 4 chật chội, cũ kỹ; bù lại, có mảnh vườn khá rộng, có dừa vươn mình soi bóng, giàn mướp nở hoa vàng rực rỡ và một ao cá nhỏ xinh. 
    
Tôi hồi hộp bước vào và thấy một ông già tóc bạc trắng. Đấy là nhà thơ Hữu Loan; ngồi cạnh một phụ nữ đã cao tuổi nhưng trông vẫn khoẻ mạnh, là vợ nhà thơ. Thấy chúng tôi vào, vợ chồng nhà thơ không ngạc nhiên, không tỏ ra vui mừng, đon đả, nhưng thân mật. Ông bà không hỏi chúng tôi là ai, đến đây làm gì, chỉ mời nước và quay quạt về hướng chúng tôi. Có lẽ những cuộc viếng thăm của các nhà văn, nhà báo, hay đơn giản chỉ là của những người yêu thơ đã trở nên quen thuộc với vợ chồng nhà thơ Hữu Loan. 
  


Mối tình thánh thiện, đau thương và tuyệt tác thơ "Màu tím hoa sim”       

Gia đình ông Lê Đỗ Kỳ là một gia đình trí thức cách mạng. Ông là kỹ sư canh nông, đã từng giữ chức Tổng Thanh tra Canh nông Đông Dương. Vợ là con một nhà khoa bảng đất Thanh Hoá. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông Kỳ là đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên. Vợ ông trở thành cán bộ của Hội Phụ nữ. Ba người con trai đầu của ông đi bộ đội. Người con cả là Lê Đỗ Khôi, hy sinh trên đồi Him Lam ngay trước giờ chiến thắng Điện Biên. Người con thứ hai là Lê Đỗ Nguyên, chính là Trung tướng Phạm Hồng Cư. Người con thứ ba Lê Đỗ An chính là Nguyễn Tiên Phong, nguyên bí thư Trung ương Đoàn, nguyên Phó Ban Dân vận Trung ương. Người con thứ tư là Lê Đỗ Thị Ninh, vợ của nhà thơ Hữu Loan, nhân vật chính của bài thơ "Màu tím hoa sim".
Chàng gia sư tài hoa và cô học trò xinh đẹp đã cảm mến nhau ngay từ khi chàng đặt chân đến nhà nàng. Chẳng thế mà nàng tự tay giặt là quần áo cho chàng, mặc dù trong gia đình có hàng chục người được thuê để lo việc nhà. Dù đã thầm yêu nàng tha thiết, nhưng vì "không môn đăng hộ đối" nên chàng chẳng dám ngỏ lời. Nhưng người quyết liệt lại là nàng. Nàng chủ động bắt chuyện với chàng, đưa chàng đi dạo ở những dải đồi nở đầy hoa sim tím. Rồi nữa, áo nàng mặc tím màu hoa sim. Trong những ngày chàng lãnh đạo khởi nghĩa ở địa phương thì nàng cũng tham gia công tác quần chúng. Khi chàng làm việc ở Uỷ ban Lâm thời tỉnh Thanh Hoá thì nàng là một trong những người tích cực vận động nhà giàu tham gia hưởng ứng “Tuần lễ vàng”. Cái không khí phơi phới, lạc quan của những đầu cách mạng thành công đã khiến cho tình yêu của họ vốn đã lãng mạn, càng thêm lãng mạn. 
   
Trước một tình yêu chân thành, mãnh liệt, tinh tế và quả cảm của người con gái đẹp; thông minh, đa cảm, tài hoa như Hữu Loan không thể không tiếp nhận. Đây là hạnh phúc mà không phải ai cũng có được: Yêu và được con gái của nhà giàu yêu, rồi chính bố mẹ cô ta đứng ra làm đám cưới. 
     
Hữu Loan cưới vợ trong một lần về phép ngắn ngủi, rồi lại ra đi, mải miết theo đoàn quân trong cuộc trường chinh chống Pháp. Nhưng cuộc đời thật khó lường, “không chết người trai khói lửa, mà chết người con gái hậu phương”. Vợ Hữu Loan chết khi mới 17 tuổi, số ngày sống với chồng chỉ tính trên đầu ngón tay. 
    
Nhận được tin vợ chết, Hữu Loan từ đơn vị trở về, thấy mẹ ngồi bên nấm mồ, bình hoa ngày cưới đã thành bình hương. Trong tim Hữu Loan - người lính, người tình, người chồng, người con dâng lên những đợt sóng trào. Tình cảm thiết tha, mãnh liệt và nỗi đau sâu thẳm đã sản sinh ra bài thơ "Màu tím hoa sim". Tất cả những tình tiết, sự kiện, con người trong bài thơ đều là thật. Có lẽ đây chính là nguyên nhân để bài thơ trở nên bất tử. 
Cho đến lúc này, người ta vẫn chưa biết nhà thơ Hữu Loan đã viết tất cả bao nhiêu bài thơ. Nhà thơ, nhà nghiên cứu Vũ Quần Phương thì khẳng định: Hữu Loan viết tất cả 24 bài. Một số nhà nghiên cứu khác nói ông viết được khoảng 40 bài. Một người con trai của ông đang tìm tòi, sưu tập bản thảo viết tay tất cả những bài thơ của ông. Anh chưa chính thức công bố vì chưa hoàn chỉnh, nhưng theo anh, toàn bộ sáng tác của bố anh không quá 60 bài thơ.
Cả cuộc đời dài gần trăm năm của mình, Hữu Loan làm thơ không nhiều, không in tập lớn, tập bé; nhưng chỉ cần với một “Màu tím hoa sim”, ông đã nhuộm tím thi đàn Việt Nam. Cái màu tím bình dị của một loài cây mọc lúp xúp ở đồi núi Việt Nam đã trở thành một trong những biểu tượng đẹp của thơ ca. 



Chuyện đời mộc mạc

  
Nhà thơ Hữu Loan và tác giả Hồ Bất Khuất
Người ta đã viết nhiều về Hữu Loan và dành cho ông những lời lẽ tốt đẹp nhất. Tôi không muốn làm cái chuyện ấy nữa, chỉ ngồi ngắm nhìn, hỏi chuyện, nghe ông nói, đọc thơ. Ở tuổi 93, vẫn với ánh mắt cười rất hóm, nhà thơ Hữu Loan chậm rãi kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời mình. 

“Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, nhưng rất sùng bái chuyện học hành. Ngày bé, tôi tự học là chính. Năm 1938, tôi ra Hà Nội thi, gặp gỡ Nguyễn Đình Thi từ dạo đó. Trở về Thanh Hoá, tôi làm gia sư, vừa để kiếm sống, vừa để học thêm, vừa có điều kiện tham gia cách mạng. 
   
Khi tôi đến dạy học ở nhà một người quyền quý, cô con gái của gia chủ nhìn tôi bằng ánh mắt rất lạ. Tôi bị ánh mắt và gương mặt đẹp thánh thiện ám ảnh, nhưng không dám nghĩ tới chuyện xa hơn. 
   
Nhưng thật may mắn, tôi là chàng trai nghèo nhưng lại được cô học trò xinh đẹp là con của một người sang trọng và giàu có yêu. Chúng tôi đã được yêu nhau và hạnh phúc, tuy rất ngắn ngủi. Sau khi Lê Đỗ Thị Ninh chết, tôi nghĩ là mình chẳng bao giờ lấy vợ nữa, ấy thế mà…” 
   
Ông dừng lời và đưa mắt tình tứ nhìn vợ là bà Phạm Thị Nhu ngồi bên cạnh. Đây là người phụ nữ gắn bó với ông suốt cả cuộc đời, sinh cho ông 10 người con. Bà Nhu nói: 

“Tôi yêu ông này vì ngày ấy hay ra nghe trộm ông giảng Truyện Kiều cho học sinh. Trọng tài rồi mê người lúc nào không rõ nữa. Dù ông ấy hơn tôi những 20 tuổi, nhưng tôi vẫn mê ông và khiến ông bỏ ý định không lấy vợ nữa. Ông ấy lại còn viết bài thơ ‘Hoa lúa’ nịnh tôi nữa chứ.” 

    

Nhà thơ Hữu Loan nhìn vào xa xăm rồi tiếp lời vợ: 

"Màu tím hoa sim" là khóc người vợ đã chết, còn "Hoa lúa" là bài thơ viết cho bà đang ngồi đây!” 

“Ông ấy nhớ toàn bộ bài này đấy, bảo ông ấy đọc cho mà nghe!” - Vợ thi sĩ thì thầm, nhưng cũng đủ cho tất cả mọi người trong căn nhà nghe rõ. 

      

Bằng một chất giọng hơi khàn nhưng vẫn ấm, nhà thơ Hữu Loan đọc bài "Hoa lúa". Bài thơ khá dài, nhưng ông đọc thong thả, khi thì nhìn ra khoảng sân có dàn mướt đơm hoa, kết trái; khi thì nhìn về phía người đàn bà đã gắn bó cùng ông hơn nửa thế kỷ. Vợ ông ngồi lim dim, mãn nguyện. Có hạnh phúc nào hơn khi người mình say mê trở thành chồng mình, làm thơ tình tặng mình, thỉnh thoảng lại dồn hết tâm trí vào đó và tha thiết đọc lên. 

   



Sự bình dị của nhân cách lớn

  
Thật khó mà tưởng tượng hết những khó khăn mà Hữu Loan vượt qua để duy trì cái gia đình có 12 miệng ăn giữa vùng quê nghèo khó trong những năm chiến tranh ác liệt. Hơn nữa, nhiều người trong bộ máy chính quyền địa phương lúc ấy không hiểu ông, còn gây thêm cho ông những khó khăn như tịch thu xe đạp của ông với lý do… phụ tùng không đồng bộ; xúi giục những người khai thác đá không bán cho ông. 

   

Bằng nghị lực và sự dẻo dai hiếm có cả về tinh thần lẫn thể chất, Hữu Loan đã vượt qua tất cả mọi thử thách, tai ương. Ông đã sống, làm việc bền bỉ, trung thực, ngay thẳng để vợ con yên bình, vững tâm mà sống, mà lớn. Người ta không bán đá cho ông thì tự tay ông khai thác và chở đi bán. Một mình ông gần như đã san bằng một ngọn núi. Ông cũng đã trở thành “chuyên gia” mò cua, bắt ốc ở nơi những cây cói mọc lên để thành chiếu Nga Sơn nổi tiếng. Có lẽ trước khi khăn gói rời Hà Nội, ông đã lường trước mọi khó khăn nên không điều gì có thể làm ông gục ngã. 
     
Nhưng theo ông, tình yêu và trách nhiệm với vợ con mới là nguồn sức mạnh lớn lao giúp ông đứng vững giữa cuộc đời. Ông bảo: “Tôi là người ương bướng, hay cãi. Ở lại làm trong cơ quan, đoàn thể, khó mà dung hoà với mọi người được. Nếu vậy thì làm sao nuôi nổi đàn con? Nghĩ vậy, tôi thấy về với vợ con là tốt nhất.” 
    
10 người con của ông đã trưởng thành, có người là giáo viên, có người là kiến trúc sư, có người là nông dân… Bây giờ mọi thứ qua rồi nên ông nhớ lại mọi thứ, nhẹ nhàng, thanh thản. Hữu Loan cho biết, ông vẫn làm thơ nhưng rất ít, và hầu như không in ở đâu. Phần lớn thời gian ông suy ngẫm để tìm ra vế đối của những câu thách đố nổi tiếng kiểu “Da trắng vỗ bì bạch”. Ông cho biết đã đối khá chỉnh nhiều vế đối của Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm. 
     
Cách đây mấy năm, Công ty Vitek đặt vấn đề xin được chuyển nhượng tác quyền bài thơ “Màu tím hoa sim” 100 triệu đồng. Lúc đầu ông không chịu với lý do “thơ tôi làm ra không phải để bán”, nhưng khi thấy có những người con vẫn còn khó khăn về vật chất, ông đã đồng ý. Sau khi nộp thuế 10 triệu đồng, ông mang 60 triệu chia cho các con, chỉ giữ lại 30 triệu cho tuổi già. 
    
Hai vợ chồng nhà thơ Hữu Loan sống trong ngôi nhà nhỏ bé, ấm cúng, xung quanh là vườn cây xanh tốt; không xe hơi nhà lầu, không hội họp, phê bình, kiểm điểm, không đọc báo cáo… Hàng ngày ông trò chuyện với vợ, đọc thơ, chơi với các cháu và tiếp khách. Người làm tím thi đàn Việt Nam sống bình dị giữa làng quê của mình với đôi mắt cười rất hóm. 

© 2008 talawas 

Thứ Hai, 12 tháng 4, 2010

18 - Chuyện kể về một cây gỗ vuông chành chạnh - Hữu Loan


(tự truyện của nhà thơ Hữu Loan. Trích lại từ Thông Luận www.thongluan.org)

Chuyện kể về một cây gỗ vuông chành chạnh


Hữu Loan



Vô cùng thương tiếc nhà thơ Hữu Loan - (MàuTím Hoa Sim - Nghệ Sĩ Quốc Anh ngâm )


"Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói Khi tóc nàng đang xanh..."
Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ duyên được cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người, nhờ ông mà năm 1938 - lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi - tôi chơi ngông vác lều chõng ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo tự học cũng có thể đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi chẳng có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài Pháp thời đó rất khó khăn. Số người đỗ trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5, 6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những cậu khóa ấy, trong số có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuân, Đỗ Thiện và tôi... (theo Lê Thọ Bình, báo Pháp Luật số Xuân Giáp Thân)
Với mảnh bằng tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà Tham Kỳ chú ý, vời về nhà dạy kèm cho hai đứa con nhỏ. Tên thật của bà Tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, bà Tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt đến (theo Lê Thọ Bình, báo đã dẫn).

Bà Tham Kỳ là một người hiền lành tốt bụng, đối xử với tôi rất đàng hoàng tử tế, coi tôi chẳng khác người nhà. Nhớ lại ngày đầu tiên khoác áo gia sư, bà gọi mãi, đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay miệng lí nhí: "Em chào thầy ạ!" Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đó nhưng ít nói và mỗi lần mở miệng là cứ y như một "bà cụ non". Đặc biệt em chăm sóc tôi hàng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng ướt em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà đem ra giếng giặt...

Có lần tôi kể chuyện "bà cụ non" ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em dỗi! Suốt một tuần liền, em nằm lì ở buồng trong, không chịu học hành... Một hôm bà Tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện cho em nghe; rồi tôi đọc thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy, ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: "Mới ốm dậy, còn yếu lắm, không đi được đâu!" Em không chịu, nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà Tham Kỳ đưa em lên núi chơi...

Xe kéo chạy chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc con, tôi đuổi theo muốn đứt hơi! Lên tới đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời. Không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:

- Thầy có thích ăn sim không?
 Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên, đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ... Khi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen nhánh, chín mọng.

- Thầy ăn đi!

Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng và trầm trồ:
 

- Ngọt quá!
 Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật chưa bao giờ tôi được ăn những quả sim ngọt đến thế!

Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi cũng đỏ tím, hai bên má thì... tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà Tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi... Lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó, nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi... Tôi quay đầu nhìn lại... Em vẫn đứng yên đó...Tôi lại đi và nhìn lại cho tới khi không còn nhìn thấy em nữa...

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi có nhận được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 đã có nhiều chàng trai đến ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ...

Chín năm sau, tôi trở lại nhà... Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp...

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không "môn đăng hộ đối" một chút nào. Mãi sau mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm "soạn kịch bản".

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, "không đòi may áo mới trong ngày hợp hôn", bảo rằng là: "Yêu nhau, thương nhau cốt cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả". Tôi cao ráo, học giỏi, làm thơ hay lại... đẹp giai nên em thường gọi đùa là ông chồng độc đáo.

Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi đi thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ đây em không còn là cô bé Ninh nữa mà đã là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, tôi lại quay đầu nhìn lại... Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ cảm thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồng (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lấy tấm áo bị nước cuốn đi nên trượt chân té xuống sông chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em đi vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại cho tôi nỗi đau không gì có thể bù đắp nổi! Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.

Nỗi đau ấy tôi phải giấu kín trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn... Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm tư gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong tôi được dịp bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng. Hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi, chép.
Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:

Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh...
...Tôi về không gặp nàng...


Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Anh bạn này đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ “Màu Tím Hoa Sim”. [1]
Đến đây, chắc bạn đọc đã biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916, hiện tại đang "ở nhà trông vườn" ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chỗ "quê đẻ của tôi đấy" thuộc Xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi mới viết nổi những câu:…“chiều hành quân/ qua những đồi hoa sim /những đồi hoa sim/ những đồi hoa sim dài trong chiều không hết /màu tím hoa sim /tím chiều hoang biền biệt và chiều hoang tím có chiều hoang biết/ chiều hoang tím tím thêm màu da diết”.

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội; từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi "hay cãi, thích chống đối, không thể làm những gì trái với suy nghĩ của tôi". "Bọn nó" nhiếc móc, chê tôi ủy mị, hoạnh họe tôi đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Tôi chẳng cần, mặc kệ chúng! Tôi thương, tôi nhớ Hoa Sim của tôi quá rồi! Với lại, tôi cũng đã chán ngấy cái mặt nạ yêu nước của "bọn nó" rồi!

Tôi về quê chúng chẳng buông tha, theo dõi quản thúc, thường xuyên kiếm chuyện gây khó dễ tôi cũng chẳng cần biết! Sau bao nhiêu năm trời ngậm cay nuốt đắng, tôi đã được dịp phơi bày tâm sự trong hai kỳ phỏng vấn của Hương Ly, phóng viên BBC tiếng Việt phát thanh trong hai ngày 5 và 12-10-2002. Theo tôi thì tình hình chung của đất nước bây giờ là thằng nào cũng lợi dụng trèo đầu cỡi cổ thằng dân chứ có cái gì đâu... Sau phần đầu nói về nguồn gốc của Màu Tím Hoa Sim và những hệ lụy của bài thơ này, trong phần II tôi đã nói về cuộc sống cơ hàn và những âm mưu ám sát, chế ngự của đảng đối với tôi và gia đình tôi từ năm 1956. Dù gian khổ và chết hụt nhiều lần, tôi nhất định không chịu quỵ lụỵ.

Hồi ấy, ra làm ở ngoài Trung Ương thì bắt phải theo cộng sản nên tôi bỏ tôi về. Tôi bỏ về nó không cho về... Nó làm tôi tam tình, tứ tội, làm đủ cách đễ thủ tiêu nhưng mà tôi vẫn tin là tôi có sự che chở của Trời - Phật cho nên nó không thủ tiêu nổi, bao nhiêu lần đầu độc không xong... Đó là cái thời 1955 - 1956 khi phong trào Văn nghệ sĩ chống Ðảng bắt đầu bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, và đồng thời chống những Văn nghệ sĩ bồi bút đang tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca tụng Ðảng để kiếm chút cơm thừa canh cặn của chế độ. Làm thơ phải có cái tâm mà phải là cái tâm linh thật thiêng liêng thì mới có thơ hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải làm về Ðảng, ca tụng Ðảng, ca tụng cộng sản, ca tụng cái buôn bán chiến tranh. Bởi vì cái đánh nhau là cái dễ kiếm chác lắm. Mà kiếm chác ở cái chiến tranh ấy thì khó kiểm tra lắm cho nên những cái bọn ăn bẩn ấy bao giờ cũng chủ trương chiến tranh, buôn bán chiến tranh. Mà tôi thì tôi thấy cái đấy là cái khổ dân nhất nên tôi chống hết sức. Lúc giờ người ta đang một tí là đề cao Hồ Chí Minh, hai tí là đề cao Hồ Chí Minh... trong khi tôi lại đề cao cái Tình Yêu. Tôi khóc người vợ tử tế với mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó khóc như vậy, nó cho là khóc cái tình cảm riêng... Y như trong Thơ nói đấy: tôi lấy vợ rồi đi Bộ đội, mới lấy nhau được có hơn tháng, ở nhà Bà ấy đi giặt rồi chết đuối ở sông... Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc. Bài thơ ấy lúc bấy giờ nó cho là phản động, làm thơ là phải làm về cộng sản, làm về bác Hồ chứ không được khóc cái đau riêng của mình... Cái đau khổ riêng của con người tại sao lại không được khóc!?

Bọn nó xúc phạm đến danh dự và tình cảm thiêng liêng của người Vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ Ðảng, bỏ Cơ quan về thẳng nhà để đi cày. Bọn ấy không cho bỏ, bắt tôi phải viết đơn xin. Tôi không xin... Tôi có cái tự do của tôi, cái chuyện bỏ Ðảng, tôi muốn bỏ là tôi bỏ không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày, đi bừa, đi thồ, đi đốn củi đưa về, đi xe đá để bán, bọn nó phá tôi đủ cách, bắt giữ xe đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ phía trước, có hai càng phìa sau thùng gỗ để đủn hay kéo đi. Xe cút kít nó cũng không cho, cấm không ai được bán bánh xe cho tôi nữa. Có lần tôi phải gánh bộ, gánh bằng vai tôi cũng cứ nhận. Tôi cứ gánh tôi làm, không bao giờ tôi chịu khuất phục. Thế mà chúng nó cũng theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an mật đi theo dõi, cho người theo hại tôi... Nhưng mà lúc nào cũng như có người cứu tôi! Có một cái lạ là chính Thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên mật vụ nói thật với tôi là được giao lệnh giết tôi nhưng nó là cái thằng rất yêu Quê hương, nhớ Quê nhà. Nó thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Ninh Bình của nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy không nỡ giết tôi.

Ngoài bài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến nỗi không có đến cái chiếu mà nằm!


Chiếc chiếu
Có ai thấy một người cha
Từng buổi, từng buổi
Trước tủ kính cửa hàng Mậu dịch dòm như nổ mắt
Tì mũi dẹp như quả bóng xuống hơi
Thầm đọc đi đọc lại giá hàng từng thứ đồ chơi
Dù nhiều lần đã hạ giá
Trong óc nổi bòng bong từng mớ
Những cơm đến gạo đến quần đến áo
Ðôi chiếu nằm rách từ giữa rách ra
Tục ngữ nói rằng những chiếc nhà dột từ nóc trên dột xuống
Từng sáng mai nhìn gầm giường
Ðốt cói rụng đầy như chiếu rụng đốt xương
Gió thổi từ dưới thổi lên
Muỗi cũng đốt từ dưới đốt lên
Nhưng con đái dầm lại tiện
Ròng rã mười năm kháng chiến
Cầm vững hai tay
Một cái tình thần
Choảng nhau với súng với bom
Gian khổ còn ư ?
Bố con ta lại vung cái tinh thần như tráng sỹ vung gươm
Chong chóng không quay
Con vứt đi phụng phịu
Sáng kiến làm đồ chơi
Bố thì không thiếu
Bố lại lấy lá dứa vận cho con cái kèn
Bố thổi nó kêu lên tò he. Tò he
Con đắc trí giật kèn đi thổi khắp Ô Kim Mã
Tò he. Tò he
Như một thiên sứ Hài đồng
Xuống lệnh điềm tin
Tò he. Tò he
Nhớ truyện Ðông Chu
Sao đỏ, sao đen
Tò he. Tò he


Cuộc đời đẩy đưa, định mệnh dắt tôi đến với một người phụ nữ khác, sống cùng tôi đến ngày hôm nay. Bà tên Phạm Thị Nhu, cũng là một người phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Bà vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố điền chủ của Việt Minh.
Nhớ lại, lúc đó, tôi còn là chính trị viên tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, hiểu biết luân thường đạo lý, lại có tâm hồn nghệ sĩ, nên tôi cảm thấy chán nản quá và không còn kính trọng già Hồ cũng như chủ nghĩa cộng sản nữa. Tuy nhiên, tôi đã trót làm đảng viên được mấy năm rồi. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng! Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa tôi ở độ mười lăm cây số, có một gia đình địa chủ rất giầu, nắm trong tay gần năm trăm mẫu tư điền.

Ông địa chủ giầu lòng nhân đạo, rất yêu nước thương người. Ông thấy bộ đội sư đoàn 301 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo tới chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là Trưởng Phòng Tuyên Huấn và Chính Trị nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông ta, đồng thời đề nghị lên Sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Riêng tôi rất quý mến và luôn luôn nhớ đến ông. Thế rồi một hôm tôi nghe tin gia đình ông ấy bị đấu tố. Hai vợ chồng bị đội đấu tố mang ra cho dân sỉ vả, nhục mạ, rồi chôn xuống đất để hở có cái đầu lên thôi. Xong, họ cho trâu kéo bừa qua lại hai cái đầu cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ xấu số chỉ còn có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội đấu tố đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo. Dã man hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm dân chúng cả việc lấy các con cái của địa chủ làm vợ làm chồng.

Biết chuyện thảm thương giáng xuống gia đình ông bà địa chủ mà tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái của họ sinh sống ra sao, vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé mỗi buổi chiều cứ lén lút đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt... Lúc gần tới nơi, may sao tôi gặp cô ta áo quần rách mướp, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom tìm lượm vài củ khoai mà dân bỏ sót nhét vào túi áo, rồi chùi vội một củ vào quần đưa lên miệng gặm. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi lại gần hỏi thăm và được cô ta kể lại rành rọt hôm cha mẹ cô bị đấu tố chết ra sao. Cô ta khóc mếu nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hàng ngày cô phải đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong cái miếu hoang; cô rất đói khổ lo lắng, không biết ngày mai còn sống hay sẽ chết vì đói khát! Tôi nghe mà lấy làm thương tâm quá, trong lòng vô cùng xúc động.

Suy nghĩ rất nhiều, tôi quyết định đem cô ta về quê tôi, rồi bất chấp lệnh cấm, tôi đã lấy cô ta làm vợ. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm. Khi xưa, quê tôi nghèo, nhà tôî cũng nghèo, tôi lại còn ở trong bộ đội nên không có tiền. Nhưng hai vợ chồng cố gắng chịu đựng đùm bọc nhau bữa đói bữa no... Cho đến ngày nay, bà ấy đã cho tôi 10 người con ngoan, 6 trai, 4 gái và cháu nội cháu ngoại hơn 30 đứa!

Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày hốt đá đi bán, túi giắt theo vài quyển sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi cởi mở, tôi được tụi nó ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm.

Năm 1988, tôi "tái xuất" giang hồ sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nhà đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do Hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.

Dọc đường đất nước trên chuyến đi, tôi đã đọc cho công chúng nghe trong những lần gặp gỡ, bài thơ dài mới nhất tên là Chuyện tôi về, một loại bút ký thơ kể về thời gian

"Ba mươi năm không phải chuyện
Một sớm một chiều
Một ngày tù đã dài như thế kỷ
Ấy là tù giữa chợ..."
Trong 30 năm đó, kể từ ngày có vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, và 17 năm sau đó nữa, chẳng có ai dám viết... Cũng trong dịp này, tôi được may mắn quen biết người bạn trẻ yêu nước, thường viết lách dưới bút hiệu Tiêu Dao Bảo Cự. Mến phục nhà trí thức đa tài đầy nhiệt huyết nầy, tôi đã chép tặng bài thơ Chuyện Di Tề với những câu như sau:



"... Tôi là cây
gỗ
vuông
chành
chạnh
suốt đời
đã làm thất bại
mọi âm mưu
đẽo tròn
để muốn tùy tiện
lăn long lóc thế nào
thì long lóc
Chân
tính
đấy
hỡi Rìu, Bào
Phó-Mộc"


Lần đó, chép xong mấy câu thơ, tôi đã chỉ tay vào trang giấy nói: "Anh thấy đó chữ Rìu, Bào và Phó-Mộc viết hoa. Anh biết tôi muốn ám chỉ ai rồi." Anh bạn trẻ gật đầu tỏ vẻ lĩnh hội!

Chuyện này sau đó tôi quên tịt, nhưng hẳn là đã để lại trong tâm tư anh ta khá nhiều ấn tượng, bằng chứng là 17 năm sau, anh bạn trẻ (lúc này 60 tuổi, và tôi cũng đã 90!) lần mò từ Sài Gòn đến tận nhà thăm tôi! Mặc dù đang cảm nặng, tôi cũng thu gom được chút lực tàn để hầu chuyện cùng anh, ăn chung với anh một bữa cơm trưa thanh đạm gọi là đãi khách từ xa tới! Anh bạn trẻ nói chuyện thật vui, hỏi nhiều thứ tôi không còn nhớ nổi, nhất là những chuyện xảy ra trong chuyến xuyên Việt năm 1988! Nhưng những sự việc trước đó thì tôi nhớ như in, nhất là vào cái thời chúng nó trù dập Nhân Văn Giai Phẩm. Anh bạn trẻ xin phép hút thuốc lá, tôi không cho; anh bảo cái gì anh cũng bỏ được, trừ cái tật nghiện thuốc lá! Hừm, có gì mà không bỏ được?! Cái gì có hại là phải bỏ, cộng sản nó ghê gớm đến thế mà tôi còn bỏ được, nói chi thuốc lá?! Nể mặt tôi nên anh giữ im lặng, nhưng tôi thấy rõ ánh bất bình trong mắt anh...

Anh bảo ra về sẽ viết một bài ký sự ghi lại buổi gặp gỡ đó, và anh đã giữ đúng lời hứa. Lớp trẻ ngày nay thật tài ba!

Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, Công ty Vitek VTB đột nhiên ra đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu, trừ thuế còn 90, chia "lộc" cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu, phòng ốm đau lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.

Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy tập thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán!



Hữu Loan



[1] Dưới đây là nguyên văn bài thơ Màu tím hoa sim mà Hữu Loan đã đích thân đọc lại cho phóng viên Hương Ly (BBC) năm 2002:





Màu tím hoa sim

"Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ bẻ bỏng chiều quê

**

Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
Năm chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng mầu tím hoa sim
Ngày xưa đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa

***

Một chiều rừng mưa
Ba người anh bị chiến trường đông bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Em nhỏ lớn lên Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
Cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Mầu tìm hoa sim tím chiều hoang biền biệt."



Hữu Loan

Thứ Ba, 6 tháng 4, 2010

17- Đèo Cả - Hữu Loan


Đèo Cả

Tác giả: Hữu Loan
Tháng Ba19

Núi cao vút
Mây trời Ai Lao
                      sầu
                           đại dương
Dặm về heo hút
Đá bia mù sương
Bên quán Hồng Quân
                               người
                                        ngựa
                                               mỏi
Nhìn dốc ngồi than
                           thương ai
                                          lên đường
Chầy ngày
               lạc
                   giữa suối
Sau lưng
             suối vàng
                          xanh
                                  tuôn
Dưới khe
              bên suối độc
                                cheo leo
                                            chòi canh
                                                          ven rừng hoang
Những người
                   đi
                      Nam Tiến
Dừng lại đây
                  giữa
                         đèo núi quê hương
Tóc tai
          trùm
                 vai rộng
Không nhận ra
                     người làng
Rau khe
            cơm vắt
                        áo
                           pha màu
                                       sa trường
Ngày thâu
               vượn hót
Đêm canh
                gặp hùm
                             lang thang
Gian nan lòng không nhợt
Căm hờn trăm năm xa
Máu thiêng trôi dào dạt
Từ nguồn thiêng ông cha

Giặc
        từ trong
                    tràn tới
Giặc
         từ Vũng Rô
                          bắn qua
Đèo Cả
           vẫn
                giữ vững
Chân đèo
                máu giặc
                             mấy lần
                                         nắng khô
Sau mỗi trận thắng
Ngồi bên suối đánh cờ
Kẻ hái cam rừng ăn nheo mắt
Người vá áo thiếu kim mài sắt
Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu

Suối mang
                bóng người
Trôi những về đâu….



Tác giả: Hữu Loan

    16 - Màu tím hoa sim - Trang thơ Hữu Loan




    • Màu tím hoa sim

      Tác giả: Hữu Loan
      Trang thơ Hữu Loan
      Nàng có ba người anh đi bộ đội
      Những em nàng
      Có em chưa biết nói
      Khi tóc nàng xanh xanh
      Tôi người Vệ quốc quân
      xa gia đình
      Yêu nàng như tình yêu em gái
      Ngày hợp hôn
      nàng không đòi may áo mới
      Tôi mặc đồ quân nhân
      đôi giày đinh
      bết bùn đất hành quân
      Nàng cười xinh xinh
      bên anh chồng độc đáo
      Tôi ở đơn vị về
      Cưới nhau xong là đi
      Từ chiến khu xa
      Nhớ về ái ngại
      Lấy chồng thời chiến binh
      Mấy người đi trở lại
      Nhỡ khi mình không về
      thì thương
      người vợ chờ
      bé bỏng chiều quê…

      Nhưng không chết
      người trai khói lửa
      Mà chết
      người gái nhỏ hậu phương
      Tôi về
      không gặp nàng
      Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
      Chiếc bình hoa ngày cưới
      thành bình hương
      tàn lạnh vây quanh
      Tóc nàng xanh xanh
      ngắn chưa đầy búi
      Em ơi giây phút cuối
      không được nghe nhau nói
      không được trông nhau một lần
      Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
      áo nàng màu tím hoa sim
      Ngày xưa
      một mình đèn khuya
      bóng nhỏ
      Nàng vá cho chồng tấm áo
      ngày xưa…

      Một chiều rừng mưa
      Ba người anh trên chiến trường đông bắc
      Được tin em gái mất
      trước tin em lấy chồng
      Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
      Đứa em nhỏ lớn lên
      Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
      Khi gió sớm thu về
      cỏ vàng chân mộ chí
      Chiều hành quân
      Qua những đồi hoa sim
      Những đồi hoa sim
      những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
      Màu tím hoa sim
      tím chiều hoang biền biệt
      Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
      Áo anh sứt chỉ đường tà
      Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
      Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
      Chiều hoang tím có chiều hoang biết
      Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
      Nhìn áo rách vai
      Tôi hát trong màu hoa
      Áo anh sứt chỉ đường tà
      Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…

      Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
      Tím tình ơi lệ ứa
      Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
      Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
      Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
      Tôi ví vọng về đâu
      Tôi với vọng về đâu
      Áo anh nát chỉ dù lâu…

      (1949, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh)
      Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành nhạc phẩm Áo anh sứt chỉ đường tà.

      Dưới đây là phiên bản do Elvis Phương trình bày.


      THoa lúa


      Tháng Ba19
      Em là con gái đồng xanh
      Tóc dài vương hoa lúa
      Đôi mắt em mang chân trời quê cũ
      Giếng ngọt, cây đa
      Anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm
      Nhạc quê hương say đắm
      Trong lời em từng lời
      Tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một
      Em ca giữa đồng xanh bát ngát
      Anh nghe quê ta sống lại hội mùa
      Có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ
      Có dân ca quan họ
      Trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ
      Cầm tay trao một miếng trầu
      Yêu nhau cởi áo cho nhau
      Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay
      Quê hương ta núi ngất, sông đầy
      Bát ngát làng tre, ruộng lúa
      Em gái quê hương mang hình ảnh quê hương
      Xa em năm nhớ, gần em mười thương
      Còn bàn tay em còn quê hương mãi
      Em mang nguồn ân ái
      Căng ngực trẻ hai mươi
      Và trong mắt biếc nhìn anh
      Em gái quê si tình
      Chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn…

      Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt
      Quê hương ta ơi từ nay càng đẹp
      Tình yêu ta ơi từ nay càng sâu
      Ta đi đầu sát bên đầu
      Mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương.

      (1955)

      Đêm

      Tháng Sáu6
      Những đêm Hà Nội ngày xưa
      Trằn trọc
      Không yên
      Những cửa
      Từ đầu hôm
      Như những mắt nhắm nghiền
      Bóng nhà bóng cây
      Ôm nhau
      Run sợ
      Đêm Hà Nội ngày xưa
      Như con bệnh hạ xoài
      Nung mủ
      Như một nhà thương điên
      Lên cơn hôn mê
      Thiết giáp
      Xe tăng
      Lính tẩy
      Phòng Nhì.
      Tiếng rú của người
      Tiếng rít của xe
      Những chiếc jeep điên
      Đuổi gái
      Nghiến người
      Quắc mắt đèn pha
      Đỏ tia đòng đọc
      Đêm Hà Nội ngày xưa
      Đầu người
      Và tình yêu
      Treo
      Trên đầu sợi tóc
      Và sau từng đêm
      Mệt nhọc
      Hốc hác
      Hồ Gươm
      Như mắt thâm quầng

      Hốt hoảng gọi nhau
      Không kịp vớ áo quần
      Những đêm Hà Nội ngày xưa
      Loã lồ
      Mình đầy ung độc
      Đã xuống tàu đêm
      Vào Sài Gòn
      Tất cả
      Những đêm Sài Gòn
      Ngày mai
      Đêm giang mai
      Tẩu mã
      Đang mâng
      Cấp cứu gấp vạn lần
      Những đêm xưa Hà Nội
      “10$ 1 cốc cà phê
      100$ con gái…”
      Quảng cáo đóng đầy
      Ngực đêm
      Như áo ngủ Sài Gòn

      Đêm Hà Nội
      Ngày nay
      Như em nhỏ nằm tròn
      Ru trong nôi chế độ
      Những đèn dài đại lộ
      Như những tràng hoa đêm
      Nở long lanh
      Trong giấc ngủ
      Bình yên
      Ngã Tư Sở, Cống Vọng, Khâm Thiên
      Nằm ngủ
      Những đêm
      Giữa tình cảm lớn
      Gió đêm về
      Thơm hoa rừng, lúa ruộng
      Đặt bàn tay
      Lên những cửa ô nghèo
      Khi chúng ta về
      Ánh sáng
      Đã về theo
      Và từng cặp người yêu
      Đem về trong giấc mơ
      Hình ảnh hồ Gươm
      Đẹp như hồ thần thoại
      In bóng người yêu
      Chung thuỷ
      Đợi chờ.

      (6-56)
      • Ngày mai

        Tháng Ba20
        Khi nắng chiều tắt thở
        Trên hàng cau úa vàng
        Bóng từng đoàn nạng gỗ
        Đi kêu trên đường làng
        Đàn ai
        Trong chiều tàn
        Tiếng âm rơi
        Tan vỡ
        Có đem dư hưởng về
        Xa thẳm
        Em đến
        Mồ xưa biếc cỏ vàng
        Em hiền như chị
        Mắt ngời xanh lam
        Em mang trong tóc
        Nắng thơm hoa ngàn
        Em là đôi mắt
        Xưa ngời xanh lam
        Của chàng lính trẻ
        Say em hát
        Ngồi lặng hình dung
        Mắt một nàng
        Em là chân mất
        Là tay mất
        Của một chàng trai
        Của một chàng
        Áo quần loang vết mủ
        Vết thương nhày
        Hôi tanh
        Em đem về giặt giũ
        Chong đèn
        Vá thâu canh
        Mai những người vui
        Có áo lành
        Bờ ao vang tiếng cú
        Một bông hoa
        Lìa cành
        Kim chùng
        Tay rớm máu
        Long lanh
        Ngày mai em đi khỏi
        Ai thương người
        Thương binh?
        Rằng:
        - Em từ đâu lại?
        Mắt lam màu
        Xa vời
        Ngày xưa có
        Chuyện đẹp
        Nàng tiên đi
        Thử người!